Chương 4Ngoài kia không còn tiếng ồn ào nữa. Fêlixitê nghe tiếng đóng cửa ra vào. Nó không biết cuộc nghi lễ buồn rầu đã kết thúc. Nó chưa mạo hiểm rời chỗ ẩn náu. Ngồi trong chiếc ghế bành nhỏ ông bác tặng cho trong ngày lễ Nôen gần đây, nó chìm ngập trong các ý nghĩ hỗn loạn. Nó nghĩ đến cả bà già nhỏ bé... chắc đấy là bà cô già, người ẩn dật dưới tầng mái phía sau nhà, vấn đề gây bất hoà không dứt giữa Hăngri và bác bếp. Theo Vêrônic nói, bà cô già có những chuyện ghê gớm day dứt lương tâm, người cho rằng bà ấy đã làm cho cha mình chết. Câu chuyện khủng khiếp ấy đã làm cho Fêlixitê luôn run lên vì hoảng sợ. Bây giờ thì thôi rồi... Bà già nhỏ bé ấy với bộ mặt nhân hậu và hai mắt ứa đầy những giọt nước mắt hiền từ như thế mà mắc tội giết cha được sao! Chắc rằng Hăngri đã đúng khi bác lắc lư cái đầu to, tỏ ý rằng phải có một điều bí ẩn trong đó.
Trước đây nhiều năm, bà cô già cũng ở trong toà nhà chính, nhưng theo cách nói bực tức của bác bếp, không làm sao ngăn được bà chơi những bản nhạc trần tục và các giai điệu vui vẻ vào ngày chủ nhật và buổi chiều. Bà chủ tha hồ phản đối, đem uy quyền của trên trời và dưới địa ngục đe doạ bà cụ, nhưng không ăn thua gì cả, ai nấy trong nhà phải bịt tai lại để khỏi nghe thấy những thứ kinh sợ kia. Rồi ông Hêluy làm theo ý vợ, bà cô già phải dọn đến ở tầng thượng sát mái nhà... Ở đấy bà cụ không làm hại ai được, không còn ai nghe thấy tiếng đàn dương cầm... dù sao thì ông chủ chắc phải giận bà già lắm vì ông không bao giờ nói đến bà cụ, dù rằng bà cụ là em gái của bố ông, và ai cũng thấy ngay hai người giống hệt nhau.
Nghĩ đến sự giống nhau ấy, một khao khát mãnh liệt xâm nhập đứa bé, nó muốn trèo lên chỗ ở sát mái nhà.
Ở cuối một hành lang dài, gần cầu thang từ tầng dưới đi lên, có một cái cửa. Một hôm chúng ngồi chơi trên ấy, Đanien đã bảo nhỏ nó: “Này, bà cụ ở chỗ ấy đấy!” Rồi nó đấm hai nắm tay vào cửa hét lên: “Mụ phù thuỷ già, xuống đi!” và nó nhảy bổ xuống chân cầu thang. Fêlixitê hồi hộp sợ hãi xiết bao. Vì nó không hề nghi ngờ một chút nào rằng một người đàn bà đáng sợ bước ra, tay cầm con dao to và túm lấy tóc nó.
Nghe tiếng Hăngri gọi, con bé rời khỏi chỗ trốn. Nó tự nhiên cảm thấy rằng từ nay về sau chỉ còn nương tựa vào ông già độc thân này, hiện thân của lòng nhân từ, dù thái độ gay gắt. Bác yêu mến con bé và nhờ sự thận trọng của bác, đứa bé đã may mắn không biết rõ quá khứ của nó.
- Chà, Fê, cháu đây rồi! – bác thân mật nói và nắm lấy bàn tay nhỏ nhắn của nó trong bàn tay phải chai cứng của bác. – Bác đi tìm cháu khắp mọi xó xỉnh... Xuống nhà dưới với bác, ở trên này, người ta không dung nạp cháu nữa, tội nghiệp cháu!
Fêlixitê nhìn quanh gian phòng trước nhà trống rỗng.
- Bác đâu rồi? – nó thì thầm hỏi trong lúc để cho bác Hăngri dắt xuống nhà dưới.
- Người ta đem ông đi rồi: bây giờ ông đang ở trên trời, cháu biết rồi đấy; Ông ở đấy sung sướng hơn ở dưới đất, – Hăngri trả lời giọng âu sầu.
Bác cầm chiếc mũ lưỡi trai và đi ra phố.
Ở nhà dưới đã khá tối. Con bé giật mình khi Vêrônic bất chợt đem đèn vào. Chị bếp đặt lên bàn chiếc đĩa đựng một chiếc bánh phết bơ.
- Lại đây cháu, ăn đi... bữa phụ buổi chiều của cháu đấy, – chị nói.
Con bé lại gần, nhưng không đụng đến miếng bánh. Nó cầm chiếc bảng mà Hăngri đã lên phòng ông bác tìm xuống và bắt đầu viết. Có tiếng chân chạy qua gian bếp kề bên và ngay sau đấy Đanien thò đầu tóc vàng hoe qua cánh cửa mở hé. Fêlixitê run lên, vì thằng bé này lúc nào cũng hung dữ khi nó thấy chỉ có mình nó với con bé.
- À, con Fê đây rồi, – nó thốt lên bằng một giọng Fêlixitê rất sợ. – Này, con mất dạy, mày chui rúc ở đâu thế?
- Trong phòng xanh, – con bé trả lời không ngước mắt lên.
- Đừng có nghĩ đến chỗ ấy một lần nào nữa! – Nó đe doạ – Mẹ tao nói đấy không còn là chỗ của mày nữa... Mày viết cái gì thế?
- Bài tập ông Richte cho tôi.
- Chà! Ông Richte, – nó nhại lại và bằng một cử động rất nhanh xoá hết những gì viết trên bảng. – Thế là mày vẫn tưởng rằng mẹ sẽ ngốc đến nỗi vẫn trả tiền những buổi giảng tốn kém ấy cho mày à?... Mẹ sẽ không làm như thế đâu. Mẹ đã nói: Chấm dứt tất cả các thứ ấy đi. Bây giờ mày có thể trở lại nơi mày đã từ đó đến đây. Rồi mày sẽ làm như mẹ mày đã làm. Người ta cũng sẽ đối xử với mày như thế. – Nó giơ hai tay lên má, làm như giả vờ bắn và hét “Bùm!”.
Con bé mở to mắt nhìn nó. Thằng Đanien nói về mẹ nó, việc này chưa từng xảy ra, nhưng điều thằng kia nói hầu như không sao hiểu được.
- Nhưng mày không hề biết mẹ tao! – Nó ngập ngừng nói.
- Ồ! Tao biết về mẹ mày còn hơn cả mày! – Thằng bé dừng lại một tí rồi đáp, trong lúc ấy con mắt nham hiểm của nó hiếng nhìn từ dưới cái trán cúi gằm xuống. – Có phải mày cũng chẳng biết bố mẹ là gì phải không?
Con bé lắc đầu, cử chỉ ngây thơ thật đáng yêu, nhưng đôi mắt cầu khẩn của nó như bám lấy miệng đứa vừa hở chuyện. Nó biết quá rõ cách cư xử của thằng kia, nên không ngại bị xúc phạm.
- Họ là những người làm trò rong! – thằng kia la lên và cười gằn. – Mày biết không, như những người mình đã trông thấy bắn chim bồ câu ấy mà... Họ làm những trò khó khăn, khéo léo, nhào lộn và liên tiếp như thế, biểu diễn xong đi vòng quanh mọi người cầm cái bát gỗ và xin tiền.
Chiếc bảng đá rơi xuống đất vỡ vụn ra hàng nghìn mảnh. Fêlixitê bật dậy và chạy vội vào bếp như con điên.
- Nó nói dối, nói dối, phải không, bác Vêrônic? – nó cãi và nắm cánh tay bác bếp.
- Tôi không nói như thế, nhưng nó đã nói quá đáng. –Vêrônic trả lời, dù khắc nghiệt, bác cũng động lòng khi thấy con bé bị kích động quá như thế. – Họ không đi ăn xin, đúng thế, nhưng họ là người làm xiếc rong.
- Và họ làm những trò rất tồi! – Thằng bé độc ác nói tiếp, nó đến gần lò để thăm dò nét mặt Fêlixitê.
Thế mà nó vẫn chưa khóc, nó còn nhìn thằng kia một cách xấc xược, hai mắt bừng bừng như toé lửa làm thằng kia phát điên lên.
- Họ làm những trò ghê tởm! – Nó nói tiếp – Mẹ mày đã cám dỗ Đức Chúa Trời, vì thế mụ sẽ không bao giờ được lên Thiên đường, mẹ tao bảo thế.
- Mẹ tao chưa hề chết! – Fêlixitê rền rĩ. Cái miệng nhỏ tái nhợt run lên như đang sôi và bàn tay nó bám lấy nếp áo Vêrônic.
- Chết rồi, chết rồi, con ngốc ạ, đã lâu rồi, từ lâu rồi, cha tao lúc còn sống giữ kín không nói cho mày biết đấy... Ở đằng kia, ở toà thị sảnh, trong khi làm một trò ảo thuật, mụ bị mấy người lính bắn chết.
Đứa bé bị hành hạ hét lên một tiếng thống thiết. Vêrônic đã gật đầu xác nhận những lời nói sau của Đanien, như vậy là nó không nói dối.
Lúc ấy Hăngri vừa về. Đanien chạy trốn khi người đầy tớ có đôi vai to bè hiện ra trên bậc cửa... Với những kẻ bản tính nham hiểm, một bộ mặt trung thực và thẳng thắn bao giờ cũng gợi nên sự sợ hãi không vượt qua được. Lương tâm bác bếp cũng không yên ổn. Bác vội vàng hấp tấp khuấy vào mấy cái nồi.
Fêlixitê không hét nữa. Nó đứng tựa vào tường, hai cánh tay khoanh lại che lấy trán, nhưng ai nấy đều biết nó đang chống chọi với một cơn khóc dữ dội.
Tiếng hét lanh lảnh của con bé lọt ra khỏi cửa. Hăngri đã nghe thấy, bác còn trông thấy cả thằng Đanien biến sau cửa phòng ăn. Và bác biết ngay đã có một việc gì độc ác xảy ra. Không nói một lời, bác kéo con bé ra khỏi tường và nâng mặt nó lên, mặt nó xanh xao kinh khủng. Trông thấy Hăngri con bé oà lên khóc và thốt lên giữa tiếng nức nở: “Họ đã bắn mẹ cháu chết rồi, mẹ yêu quý và tốt lành của cháu!”.
Bộ mặt khoáng đạt của bác đầy tớ tái đi vì tức giận, bác cố ghìm được tiếng chửi thề.
- Ai bảo cháu thế? – bác hỏi và hầm hầm liếc nhìn Vêrônic.
Con bé im lặng, nhưng bác bếp kể lại việc đã xảy ra vừa kể vừa cời lửa và lại rưới mỡ lên món quay bác vừa rưới mỡ xong, loay hoay nhiều cử chỉ thừa, chỉ để tránh khỏi nhìn trực diện Hăngri.
- Tất nhiên Đanien chưa nên nói việc ấy với nó hôm nay, – bác kết luận, – nhưng mai hay ngày kia, bà chủ sẽ nói toạc ra cho nó biết, bà sẽ không nương nhẹ đâu, bác có thể chắc chắn như thế!
Hăngri đem Fêlixitê vào phòng bên, ngồi cạnh nó trên chiếc ghế gỗ dài dưới cửa sổ và cố làm cho nó bình tĩnh lại, bằng hết mức mà cách nói vụng về của bác cho phép. Bác kể cho nó nghe, không phải không dè dặt, tai nạn khủng khiếp ở toà thị sảnh và kết luận:
- Mẹ cháu mà mọi người thường nói trông như một thiên thần bây giờ đang ở trên trời, bà ấy lúc nào cũng trông thấy bé Fê của mình.
Rồi bác nhẹ nhàng vuốt ve đầu con bé lúc này lại đang oà lên khóc nức nở.
Chương 5Hôm sau, lúc chuông ngân, một đứa bé trùm khăn đen lẻn ra khỏi nhà. Dưới chiếc khăn quàng to và thô được ghim chặt dưới cằm, không ai nhận ra vóc dáng xinh xắn và thanh thoát của Fêlixitê. Bác Vêrônic đã trao cho con bé chiếc khăn xấu xí, thô kệch ấy, nhấn mạnh rằng bà chủ tặng cho nó thứ trang sức này để để tang ông chủ và dặn nó không được ngồi ghế dành cho gia đình bà ở nhà thờ như ngày xưa. Nó sẽ ngồi ở chỗ của lũ trẻ học ở trường.
Fêlixitê cắp quyển sách kinh dưới cánh tay và rẽ ngoặt ngay vào góc đường. Rõ ràng là nó đang vội, nhưng đàng kia có ba người mặc đồ đen đang chậm rãi bước đi trịnh trọng. Rồi mắt không rời họ, nó rảo bước dọc theo nhà thờ, đi qua các cửa lớn mở toang, ở đấy tiếng đàn oóc vang rền đang toả ra...
Ngay sau khi ba bóng người đi khuất vào trong nhà thờ, con bé rẽ vào một con đường nhỏ dốc đứng đưa ra cửa thành phố. Bên kia là cánh đồng, dù hoảng sợ ngay tiếng chân mình bước trên sỏi lạo xạo, Fêlixitê vẫn bước nhanh hơn trên con đường cấm ấy. Nó dừng lại như hết hơi trước nghĩa địa.
- Đến thăm ai thế, cháu bé? – một người đàn ông mặc sơmi đang đứng tựa cột hút thuốc hỏi.
- Mẹ cháu, – Fêlixitê trả lời ngay và đưa mắt nhìn khắp cánh đồng hoa rộng lớn ấy.
- A... mẹ cháu đã ở đây rồi à?... Ai thế?
- Mẹ cháu là vợ một người làm ảo thuật.
- À, người đã chết ở toà thị sảnh cách đây năm năm phải không... Bà ấy nằm ở đằng kia, phía góc tiểu giáo đường.
Đứa bé bơ vơ đã có mặt ngay ở chỗ nắm đất phủ lên đỉnh điểm tôn thờ của các giấc mơ thơ ấu của nó! Chung quanh đấy, các ngôi mộ phần nhiều được trang điểm bằng những bụi thuý cúc hoa sặc sỡ. Riêng dải đất hẹp dưới chân con bé chỉ có một ngọn cỏ héo, sém, xen lẫn vài dải cỏ gà rậm rạp. Người ta đã vô ý tạo ra một lối đi ở đấy. Đất lúc đầu xốp rồi bị những trận mưa to lèn chặt, đã lún xuống, cùng lún theo đất là phiến đá trắng trồng ở đầu ngôi mộ vô thừa nhận. Những chữ to, đen ở phiến đá trông rất rõ. Fêlixitê đọc “Mêta d’Ooclôpxca” rồi ngồi xổm xuống đấy. Tay nó bới một chỗ đất không có cỏ... Đất, chỉ thấy có đất! Cái khối nặng nề, vô cảm này đè nặng lên khuôn mặt dịu hiền, trên vóc dáng đáng yêu mặc áo satanh, lên những bông hoa trong những bàn tay cứng đờ, trắng như hoa huệ. Lúc này, con bé biết rằng mẹ nó đã vượt qua trạng thái ngủ rồi.
- Mẹ yêu quý ơi – nó thì thầm, – mẹ không thể nhìn thấy con, nhưng con đang ở đây, đang ở gần mẹ! Và dù Chúa nhân từ không muốn biết gì đến mẹ, Người đã không ban cho mẹ một bông hoa nhỏ – dù không người nào quan tâm đến mẹ, thì con, con vẫn yêu mẹ và sẽ luân luôn đến chỗ mẹ!... Con chỉ muốn yêu mẹ mà thôi, không yêu cả Chúa nhân từ, vì người quá nghiêm khắc, quá độc ác với mẹ.
*
* *
- Con không biết con đã đòi hỏi mẹ như thế nào đâu, Giôhanex – bà quả phụ đáp lại giọng cực kỳ khó chịu, – trong năm năm trời ròng rã mẹ đã phải chịu đựng bên mình cái đồ cặn bã, mà cả Chúa và người đều từ bỏ ấy, mẹ không thể chịu được thế lâu hơn nữa!
- Vậy thì không còn cách nào khác là nhắn tin cho cha con bé đến.
- Ồ, con cứ nhắn đi! – Bà Hêluy thốt ra một tiếng cười gằn chua chát. – Con người ấy à, hắn cảm ơn Chúa đã thoát được một miệng ăn! Bác sĩ Buêơm bảo mẹ rằng theo như ông biết thì người ấy chỉ viết có một lá thư từ Hămbua... sau đấy là biệt tăm.
- Mẹ yêu quý của con, là người sùng tín như mẹ, chắc mẹ không để cho đứa bé trở lại nơi nó sẽ mất linh hồn...
- Nó đã ở đấy từ trước rồi.
- Không mẹ ạ! Dù con không muốn phủ nhận rằng tính nó phóng túng từ trong dòng máu, con vẫn tin tưởng ở hiệu quả của sự giáo dục tốt.
- Như vậy ý con là chúng ta phải tiêu một món tiền lớn trong biết bao nhiêu năm nữa cho một đứa không là gì đối với chúng ta cả? Nó sẽ học tiếng Pháp, học vẽ...
Giôhanex chặn ngay việc liệt kê lại, lần đầu tiên giọng nói đều đều ấy sôi động lên một tí.
- Có Chúa phù hộ, con không nghĩ đến việc ấy, con thấy giáo dục phụ nữ theo cách hiện đại thật khả ố... Những người đàn bà như mẹ với tinh thần sùng tín và nữ tính thực sự không bao giờ vượt qua các giới hạn đã định cho mình, không bao lâu nữa sẽ phải đi tìm những người như thế... Không, tất cả những việc ấy phải chấm dứt ngay hôm nay! Mẹ cứ dạy con bé một cách bình dị, theo mục đích của nghề nghiệp nó sẽ làm sau này... nghề làm tôi tớ. Con để mẹ toàn quyền về việc ấy và không hề băn khoăn. Với ý chí mạnh mẽ và lòng tín ngưỡng của mẹ.
Lúc ấy, cửa đột ngột mở toang, Đanien chán ngấy cuộc hội đàm ấy đã nhảy ra ngoài. Fêlixitê ép mình vào tường, nhưng thằng bé vẫn nhìn thấy nó, như con diều hâu chồm vào con bé đang run rẩy.
- Ồ, mày có trốn cũng chẳng ích gì! – nó nói và bóp chặt lấy cổ tay mảnh khảnh của con bé lôi ra mạnh đến nỗi con bé phải thét lên. – Mày phải đến đọc cho mẹ nghe bài thánh kinh! Mày không thuộc gì cả phải không? Mày không có mặt ở chỗ bọn học trò, tao đã để ý mà... Mà mày ăn mặc kiểu gì thế này?... Không được, mẹ ơi, nhìn cái áo này!
Nói đến đấy nó kéo con bé đang phản kháng đến tận cửa.
- Vào đây, bé con! – Giôhanex ra lệnh, anh vẫn đứng ở giữa phòng và tay vẫn cầm bức chúc thư của cha mình.
Fêlixitê ngập ngừng bước qua ngưỡng cửa, Giôhanex tỏ vẻ ghê tởm khi nhìn đến cái gấu áo của đứa bé.
- Mày đi đâu đến nỗi như thế này? – anh hỏi và chỉ vào chỗ áo anh nhìn thấy.
Con bé sợ hãi thấy rõ tai hoạ đã đến với nó. Cỏ và đường đi ở ngoài ấy còn ướt đẫm sương, khi quỳ gối lên ngôi mộ nó không nghĩ rằng vết bẩn rất rõ ấy vẫn tồn tại trên áo đen của nó… Nó đứng im, mắt nhìn xuống.
- Hử, không trả lời à?... Trông mày như hiện thân của thần Ăn năn... Mày không đến nhà thờ phải không?
- Không, – con bé thành thật nói.
- Thế mày ở đâu trong lúc ấy?
Nó im. Thà nó bị đập chết còn hơn nói đến tên mẹ nó trước mặt người ấy.
- Em sẽ nói cho anh biết, anh Giôhanex, – thằng Đanien nói xen vào. – Nó ra vườn ăn trộm quả, nó thường làm thế đấy.
Fêlixitê tức tối nhìn Đanien, nhưng không hé miệng.
- Trả lời đi, – Giôhanex ra lệnh. – Đanien nói đúng không?
- Không, nó nói dối, như nó vẫn hay nói dối! – con bé trả lời giọng quả quyết.
Ngay lúc ấy Giôhanex điềm đạm giơ tay cản Đanien đang nổi giận muốn nhảy xổ vào đứa buộc tội nó.
- Đừng động đến nó, Đanien! – Đến lượt người mẹ ra lệnh, cho đến lúc ấy, bà vẫn ngồi bên cửa sổ không nói một lời. Bà đứng lên:
- Con sẽ tin mẹ, Giôhanex, nếu mẹ đoán chắc rằng không bao giờ Đanien nói sai. Nó luôn luôn kính sợ Chúa. Mẹ đã theo dõi và hướng dẫn nó, như thế đủ cho con tin rồi... chỉ còn thiếu điều này, là con khốn nạn kia len vào giữa hai anh em, cũng như trường hợp ấy đã xảy ra giữa người cha và người mẹ... Mặc cho nó muốn đi đâu thì đi, nó đã chẳng phạm vào điều không thể tự tha thứ được là gì: Lẽ ra phải đến nhà thờ thì nó lại lang thang nơi khác.
Hai mắt bà lạnh lùng lướt trên thân thể bé nhỏ.
- Chiếc khăn quàng mới đưa cho mày sáng hôm nay đâu? – Bà đột ngột hỏi.
Fêlixitê hoảng hốt sờ lên vai... Chúa ơi, cái khăn đã biến mất, chắc nó nằm ở nghĩa trang rồi! Nó cảm thấy rất rõ nó đã mắc lỗi do quá vô ý. Nó ngượng ngùng xin lỗi.
- Này Giôhanex, con nghĩ thế nào về việc này? – Bà Hêluy hỏi giọng sắc như dao. – Mẹ cho nó chiếc khăn mới mấy giờ đồng hồ, điệu bộ của nó bộc lộ cho con thấy nó đã đánh mất rồi... Giá mà mẹ biết rõ người cha quá cố của con đã tốn kém như thế nào để may sắm quần áo cho nó... Từ bỏ nó đi, mẹ bảo con như thế! Mọi sự chăm sóc đều uổng phí... Không bao giờ con nhổ tận gốc được những thói xấu nó đã thừa hưởng được của một người mẹ nhẹ dạ và phóng đãng!
Lúc ấy đột nhiên Fêlixitê biến sắc. Mặt nó đỏ gắt, đỏ lan cả cái cổ trắng nõn cho đến tận chỗ hở ở cổ chiếc áo len thô. Hai mắt u ám của nó vẫn còn lóng lánh những giọt nước mắt hối hận như loé chớp vào mắt bà Hêluy. Nỗi sợ hãi bà suốt năm năm ròng đè nặng lên thân thể bé nhỏ của nó và luôn khoá miệng nó lại thế là biến mất. Tất cả những gì từ hôm trước làm cho nó căng thẳng kinh khủng bỗng chiếm ưu thế và lấy nốt phần tự chủ cuối cùng của nó... Nó nổi giận.
- Đừng động đến mẹ tội nghiệp của cháu, cháu không cho phép đâu. – Nó hét lên, tiếng nó vốn dịu dàng vang lên lanh lảnh. – Mẹ cháu không làm gì bà cả! Không bao giờ được nói xấu người chết, ông bác vẫn bảo thế, vì họ có tự bảo vệ được đâu. Thế mà bà, bà cứ làm như thế, thật là xấu, thật là ghê tởm!
- Giôhanex, con thấy nó nặc nô chưa? – Bà Hêluy mỉa mai nói. – Đấy là kết quả của cách giáo dục tự do của cha con đấy! Đấy là con bé tuyệt diệu, như cha con gọi nó trong bức thư!
- Bảo vệ mẹ là quyền của nó, – Giôhanex khẽ nói, – nhưng cung cách nó làm việc này thật thô lỗ và khả ố. Sao mày dám nói với bà đây thiếu lễ độ thế? – Anh nói tiếp với Fêlixitê, trong khi khuôn mặt xanh xao của anh hơi đỏ lên. – Mày không biết rằng mày sẽ chết đói nếu bà không cho mày ăn? Và ở ngoài kia, hè phố sẽ là giường của mày, nếu bà đuổi mày ra khỏi nhà?
- Tôi không muốn ăn của bà ấy! – con bé nói rành rọt – Bà ấy là người độc ác, độc ác... Mắt bà ấy ghê sợ quá. Tôi không muốn ở lại trong nhà anh, nơi người ta chết dần chết mòn, nơi mà từ sáng đến tối chỉ chờ đợi những đối xử tàn tệ... Tôi thích chui xuống đất với mẹ tôi hơn, tôi muốn chết đói hơn...
Nó không nói thêm nữa, Giôhanex đã túm lấy cánh tay nó, các ngón tay gầy guộc của anh bấu vào thịt nó như những chiếc móc sắt... anh lay nó thật mạnh và nhiều lần.
- Tỉnh táo lại đi, trở lại với lý trí đi, đứa bé kinh khủng này! – anh nói. – Khiếp, mới là một con bé, mà đã khích động đến thế! Ngoài xu hướng bông lông và vô hạnh, lại còn tính hung bạo quá mức này nữa!...
Anh quay về phía người mẹ:
- Con đã thấy có nhiều lỗi lầm ở đây rồi, nhưng dưới sự khắt khe của mẹ, điều đó sẽ thay đổi.
Anh không buông tay con bé và lôi nó xuống nhà dưới một cách thô bạo:
- Kể từ hôm nay, chính ta sẽ ra lệnh cho mày, hãy ghi nhớ lấy, – anh nói giọng gay gắt, – và dù ở xa ta vẫn có cách trừng phạt ngay sau khi biết rõ mày đã không vâng lời, đã cãi lại mẹ ta... vì cách cư xử của mày hôm nay, mày phải phạt không được ra khỏi nhà cho đến khi có lệnh mới, một khi mày đã sử dụng tự do một cách bừa bãi. Mày sẽ không được ra vườn nếu không được mẹ ta đặc biệt cho phép, mày chỉ được ra phố để đến trường tiểu học mà từ nay mày sẽ học ở đấy, mày ở nhà dưới, và ở dưới ấy suốt ngày, cho đến khi nào mày tỏ ra ngoan ngoãn hơn... Mày hiểu ta nói gì chứ?
Con bé im lặng quay mặt đi. Anh bỏ ra khỏi phòng.
Chương 6Chiều hôm ấy, gia đình Hêluy dùng cà phê ở ngoài vườn. Vêrônic khoác lên vai chiếc khăn ngày lễ lót nỉ mỏng, đội lên đầu chiếc mũ không vành đẹp nhất bằng lụa lót bông rồi đi nhà thờ, sau đó đến chơi nhà một mụ ưa bép xép, chỉ có Hăngri và Fêlixitê ở trong ngôi nhà lặng lẽ, người đầy tớ này đã bí mật ra nghĩa trang tìm được chiếc khăn khốn khổ từ lâu rồi, đã gấp lại xếp vào tủ sau khi giặt sạch sẽ.
Người tớ già lương thiện ấy đã từ dưới bếp nghe thấy và trông thấy một phần cảnh tượng trong buổi sáng. Bác đã cố ghìm mình để khỏi can thiệp vào. Bây giờ bác ngồi ở dưới nhà và huýt sáo miệng. Mắt bác nhìn trộm con bé trầm mặc... Đâu còn là diện mạo của bé Fêlixitê nữa! Nó thu hình lại như con chim bị cầm tù, nhưng một con chim mà tính hoang dại cháy rực trong lồng ngực và lòng đầy hiềm khích không thể hoà giải được với bàn tay đã nhốt nó vào lồng.
Con bé bỗng nhảy dựng lên. Trên tầng xép có thể nhìn thấy cánh đồng ở xa xa, trên tầng xép có mặt trời và không khí. Nó như một cái bóng leo lên thang gác to bằng đá.
Ngôi nhà cổ của gia đình thương nhân này khi xưa là một lâu đài. Ở bất cứ chỗ nào có thể, người thợ đục đá đều tạo hình ở đấy chiếc khiên của người xây lâu đài, một hiệp sĩ Đờ Xecbông. Các khuôn đá quanh cửa chính và cửa sổ, rồi cả những ô vuông biệt lập ở trên sàn, đều phô bày hình ảnh một con hươu oai vệ, sừng vênh lên, sắp sửa chồm qua vực thẳm, gia huy này khắc tới hai bản ở đầu trên cầu thang.
Lên đến đấy, Fêlixitê mở to mắt nhìn một khung cửa mở hé trước đây nó chỉ thấy đóng. Sau cửa này, một hành lang chạy dài xa tắp, đến tận ngôi nhà cuối cùng. Nhiều cửa mở ra hành lang. Một cửa mở toang để lộ rõ căn phòng chứa đồ có cửa sổ cao gần mái. Buồng đầy các thứ đồ cũ, nhưng... chiếc hòm nhỏ, bọc da hải cẩu thì Fêlixitê biết rõ lắm!... Ngập ngừng, gần như không dám thở, nó mở nắp lên... thứ đầu tiên nó trông thấy là một chiếc áo xanh nhạt, diềm thêu đính ruy-băng. Nó nhớ lại, đây là chiếc áo Vêrônic cởi ra cho nó một buổi tối, rồi biến mất, nhường chỗ cho một chiếc áo màu hạt dẻ gớm khiếp.
Hai bàn tay con bé thọc sâu xuống nữa. Tâm hồn non dại ấy cảm động biết chừng nào khi nhìn thấy mọi thứ sang trọng xứng hợp với một nàng công chúa mà người mẹ quá cố đã cầm trong tay! Fêlixitê nhớ lại rất rõ những cảm giác dịu dàng khi mẹ mặc áo cho nó và những ngón tay nhẹ nhàng chạm vào nó. Kìa, dưới đáy hòm trong các túi nhỏ, không phải một thứ đồ chơi như nó tưởng lúc đầu, mà là một cái dấu bằng mã não thật đẹp trên một chiếc thẻ bài bằng bạc cũng chạm một con hươu oai vệ vươn lên như hình tượng những con hươu đầy rẫy, đến mức thái quá, trên các tường nhà Hêluy. Dưới da huy ấy có khắc mấy chữ M. Đ.C. Vật này chắc chắn của mẹ nó.
Hồi ức dồn dập đến với con bé. Bây giờ nó mới hiểu những lúc đột ngột tỉnh giấc ngủ lúc chập tối, nhìn thấy cha mặc áo nịt chẽn lóng lánh vàng, mẹ buông xoã mớ tóc vàng hoe đứng bên giường nó... hai người vừa biểu diễn về... rồi mỗi lần người ta bắn vào mẹ, rồi nó nhìn khuôn mặt tái xanh không hề ngờ đến sự gì cả: tuy nhiên nó vẫn nhớ rằng trong những buổi tối ấy, nó được nhấc bổng lên một cách vội vã và được mẹ ôm ghì vào lòng.
Những của báu tìm thấy được vuốt ve từng thứ rồi được xếp vào chỗ cũ cẩn thận, và khi nắp hòm lại che lên chúng, con bé vòng tay ôm lấy cái hòm và đặt cái đầu nhỏ bé của nó lên trên. Mặt nó đang cau có dịu hẳn lại. Khi nó áp cái má mịn màng lên chiếc hòm bị mọt đục, nó nằm phục ở đấy, lặng lẽ, hai mắt nhắm lại.
Một luồng không khí ấm áp luân lưu qua cửa sổ và tuôn từng làn hương thơm vào trong các góc yên tĩnh của tầng mái... Làm sao mà mùi thơm ngát toả ra từ những luống mộc lê thảo lại có thể lên cao đến thế? Và những âm thanh dồn dập vang đến cùng hương thơm là cái gì nhỉ?... Fêlixitê mở mắt ngồi nhỏm lên để nghe. Có người đang chơi dương cầm đoạn dạo đầu bản nhạc Đông Gioăng hay tuyệt vời.
Fêlixitê đẩy một cái bàn lung lay đến phía dưới cửa sổ và leo lên. Ôi, quang cảnh gì thế này!... Bốn mái nhà tạo thành một hình vuông khép kín. Mái đối diện cao hơn cả và chặn đứng tầm nhìn xa. Nhưng chính mái nhà ấy, trước hai mắt ngạc nhiên mở to của con bé lại là điều kỳ diệu mà các cuốn truyện tiên đẹp nhất cũng không kể được kỳ diệu hơn. Ở đấy, phía dốc thoải không có ngói như ba mái nhà kia, đen thui, bẩn thỉu, rêu phủ, không, ở đấy hoa nở chi chít: thược dược và thuý cúc. Vừa tầm tay người với từ cái hành lang gá vào phía dưới mái, hàng loạt hoa leo lên, liên kết với những nóc, tua nó bò sang cả các mái nhà bên cạnh với những đài hoa chĩa ra như hoa lồng đèn và những chùm quả đen. Hành lang ấy chạy dài suốt mái và treo lên mái nhẹ nhàng một cách kỳ ảo. Hình như được gió đưa lên. Tuy rằng thành lan can mang những bồn đất nặng nề, ở những bồn ấy vươn lên những khóm hoa yên chi và những khuôn mặt tươi cười của hàng trăm bông hồn xứ Bănggan.
Một chiếc ghế ngồi ngoài vườn màu trắng, khá to, để cạnh chiếc kỷ trên đặt bộ đồ trà bằng sứ chứng tỏ không chối cãi được rằng có những con người bằng xương bằng thịt ở trên tầng thượng này. Tuy nhiên theo ý nghĩ đầu tiên của con bé về cái kiến trúc làm trồi ra ở chỗ ấy, một khung cửa kính ngăn cách với hành lang, thì đấy phải là túp lều của bà tiên hoa, nó cũng không hoàn toàn sai. Không ai trông thấy mái, thấy tường gì cả, tất cả đều tràn ngập những dây trường xuân lá to; dây hoa kim liên vươn lên, toả dưới vòm xanh những đài hoa những chiếc lá vàng mịn như nhung và đu đưa chúng tuỳ thích trên khung cửa kính. Khung cửa ấy hé mở và từ nơi ấy thoát ra những âm thanh đã thu hút con bé ra cửa sổ.
Mắt lướt nhìn xuống phía dưới, các tiếng cục cục, cộc tác, làm cho Fêlixitê biết rằng dưới ấy là sân nuôi gà vịt. Đã bao lần chị Vêrônic chẳng thịnh nộ bước vào bếp và quay lại phía bác Hăngri mà lầu bầu:”Mụ già trên kia lại tưới mấy túm cỏ bẩn thỉu của mụ làm cho tràn cả các ống máng!”... Ôi, mấy túm cỏ bẩn thỉu chính là hàng ngàn bông hoa xinh đẹp ở chỗ kia, và người chăm sóc chúng là... bà cô già đang xúc phạm đến thần thánh trong buổi chiều chủ nhật bằng những giai điệu trần thế và vui vẻ.
Vừa nghĩ đến đấy hai chân con bé đã trèo lên thành cửa sổ. Cũng ở đấy, toàn bộ sức dẻo dai của tâm hồn trẻ thơ bừng lên khiến nó có thể quên đi trong chốc lát nỗi khổ sở và buồn rầu trước một ngẫu nhiên mới mẻ nào đó...Con bé biết trèo như sóc, và chạy trên các mái nhà chẳng có nghĩa lý gì đối với nó. Phía dưới, các ống máng móc vào mái là đường đi rất tốt, đúng là chúng cũng hơi lung lay và ở các góc tiếp giáp nhau cả hai đầu đều chúc xuống nhưng còn lâu mới gẫy được. Con bé chui ra khỏi cửa sổ, chỉ hai bước nó đã đi qua mái nhà dốc nghiêng và đứng ở lòng máng. Có những tiếng ken két, tiếng răng rắc đáng ngại khi chân nó bước thoăn thoắt. Bên phải không có lấy một chỗ vịn, bên trái là vực sâu, nó vẫn vững vàng bước. Chỉ còn trèo lên cái mái cao nhất rồi vượt qua lan can thế là con bé với hai má nóng bừng, đôi mắt long lanh, đã ở giữa đám hoa.
Nó đưa mắt rụt rè nhìn qua ô cửa kính. Những dây trường xuân đâm qua mái nhà vào tận trong gian phòng lớn này hay sao ấy nhỉ? Không thể trông thấy vách tường lát như thế này vì các nhành lá dệt kín khắp nơi, nhưng từng quãng một, ở vách tường nhô ra những chiếc đế trên bày các bức tượng bán thân bằng thạch cao, bộ sưu tập tuyệt vời tượng các đầu người uy nghiêm, lặng lẽ, nổi bật lên sáng ngời và ma quái trên nền xanh bát ngát của vách tường đầy lá.
Dưới khung cửa sổ là chiếc dương cầm. Bà cô già trang phục như hôm qua, đang ngồi bên chiếc đàn và hai bàn tay mảnh dẻ của bà đập xuống các phím đàn mạnh đến kỳ lạ. Sắc diện bà hơi biến đổi: bà đeo kính và hai má bà hôm qua trắng xanh như ánh tuyết đang đỏ bừng lên.
Fêlixitê nhẹ nhàng bước vào và đứng lại dưới vòm cửa phía trước... Bà cụ cảm thấy có người đến gấn hay là đã nghe thấy tiếng động nào đó, bà đột ngột dừng lại giữa một hoà âm ồn ào và ngước đôi mắt to lên phía trên kính nhìn con bé, bà khẽ thốt ra một tiếng kêu, tay bà run run bỏ kính ra rồi đứng lên vịn vào đàn.
- Cháu đến đây bằng cách nào thế, cháu? – Bà hỏi giọng không yên tâm và dù bị đột ngột cũng vẫn dịu dàng, ân cần.
- Qua mái nhà. – Con bé rụt rè đáp.
- Qua mái nhà ư?... Sao lại thế được! Lại đây, chỉ cho bà xem cháu đi đường nào.
Bà cụ cầm tay con bé và cùng hành lang với nó. Fêlixitê chỉ cho bà xem cái cửa sổ trên tầng áp mái và các ống máng. Bà cụ kinh hoàng đưa tay bưng lấy mặt.
- Ồ, bà đừng sợ! – con bé ngây thơ nói.- Cứ như đi trên bánh xe ấy. Cháu biết trèo như con trai, bác sĩ Buêơm bảo cháu nhẹ như nắm lông chim và bảo rằng cháu không có xương.
Bà cụ buông tay xuống và mỉm cười. Còn nhiều duyên dáng trong nụ cười để lộ ra hai hàm răng trắng đẹp ấy. Bà dắt con bé vào phòng và ngồi trên ghế bành.
- Cháu là bé Fê phải không? – bà nói và kéo Fêlixitê vào lòng. – Bà biết rõ như thế dù cháu không hay vào đây trong bộ áo sa tanh hồng. Bác Hăngri, bạn già của cháu đã nói chuyện về cháu với bà trưa hôm nay.
Nghe đến tên Hăngri, nỗi buồn lại xâm chiếm con bé với tất cả sức mạnh của nó. Cũng như buổi sáng, hai má nó đỏ rực lên, tức giận và đau khổ hằn lên khoé miệng nó những nét cay đắng chỉ trong một đêm làm biến đổi hoàn toàn sắc diện trẻ thơ của nó... Sự biến đổi đột ngột ấy không qua được mắt bà cô già. Bằng một cử chỉ âu yếm, bà đưa tay ôm lấy mặt con bé, và áp lại gần mình:
- Cháu biết không, mỗi chủ nhật Hăngri đều lên nhà bà đã bao nhiêu năm nay để làm giúp bà nhiều việc... Anh ta phải yêu bé Fê lắm mới dám hành động trái với những điều bà căn dặn.
Sắc giận trong mắt con bé tiêu tan.
- Vâng, bác ấy yêu cháu... nếu không thì chẳng còn ai nữa, – nó nói giọng đau khổ.
- Nếu không thì chẳng còn ai ư? – bà cụ nhắc lại, đôi mắt dịu dàng vô tả của bà nghiêm nghị một cách thương yêu đăm đắm nhìn vào mặt con bé. – Vậy ra cháu không biết rằng có một người luôn luôn yêu cháu, dù khi nào tất cả mọi người đều không nhìn đến cháu?... Chúa nhân từ...
- Ôi, ông ta chẳng hề ưa cháu, vì cháu là con một người diễn trò! – Fêlixitê kịch liệt phản đối – sáng hôm nay, bà Hêluy bảo rằng cháu đã mất hẳn linh hồn và mọi người ở dưới kia đều quả quyết rằng ông ấy đã xua đuổi người mẹ khổ sở của cháu, rằng mẹ cháu không ở chỗ ông ấy... cho nên ngay cả ông ấy, cháu cũng không yêu đâu, cháu cũng không muốn đến chỗ ông ấy khi cháu chết đâu... cháu đến đấy làm gì khi mẹ cháu không có ở đấy?
- Thượng đế ơi, họ đã làm gì để cháu đến nỗi này, những con người độc ác kia, những con người dám mệnh danh có đức tin Cơ đốc giáo!
Bà cụ đứng phắt dậy và mở cửa ngách ra. Đứa bé có cảm tưởng như những đám mây trắng trên trời đang bay quanh đầu nó. Phía trên chiếc giường kê trong góc, trên các cửa sổ và cửa lớn, những bức rèm tuyn trắng rủ xuốn. Vách tường xanh nhạt của các góc này chỉ ló ra vài dải hẹp giữa đám rèm như mây. Thật tương phản biết bao giữa căn phòng nhỏ tươi mát và tinh khiết thế này, tựa như những ý nghĩ bắt nguồn từ một tâm hồn lành mạnh và không vết bợn, với cái phòng khách ghê sợ ở dưới kia, nơi bà Hêluy quỳ trên ghế cầu nguyện trong những giờ đầu tiên của buổi sáng.
Trên chiếc bàn đầu giường có một quyển kinh lớn dùng đã lâu ngày. Bà cụ mở quyển kinh bằng bàn tay chắc chắn và thành thạo, bà đọc to với niềm xúc động sâu sắc: “Nếu ta nói bằng ngôn ngữ của con người và của thiên thần mà ta không có tình thương yêu, ta chỉ là cái chuông hay chiếc nhạc”. Bà tiếp tục độc rất lâu và kết thúc bằng đoạn này: “Tình yêu không bao giờ hết, trong khi những lời tiên tri cũng chấm dứt, các ngôn ngữ biến đi và sự hiểu biết dừng lại”.
- Và tình thương yêu đi từ Chúa mà ra, phải, Chúa chính là tình thương yêu ấy, – bà nói và quàng tay qua vai con bé. – Mẹ cháu là con của Người, như tất cả chúng ta, và mẹ cháu đã ở chỗ Chúa, vì tình thương yêu không bao giờ hết... Hãy tin tưởng mà tìm mẹ cháu ở trên ấy. Ban đêm khi cháu ngắm bầu trời với triệu triệu tinh tú diệu kỳ, hãy vững tin rằng bên cạnh một bầu trời như thế không tồn tại địa ngục nào cả. Bây giờ thì cháu lại yêu Người rồi chứ, phải không, cháu hết lòng kính yêu Người chứ, cô tiên bé nhỏ của bà?
Đứa bé không trả lời, nhưng cảm kích ôm chặt lấy người đã ngọt ngào khuyên nhủ mình và những giọt nước mắt nóng hổi ứa tràn xuống má.
Hai ngày sau, một chiếc xe dừng ở trước cửa nhà Hêluy. Bà quả phụ bước lên xe cùng với hai con trai để tiễn họ lên tỉnh học. Giôhanex đi Bon, nơi anh đang học đại học y khoa, nhưng trước hết anh phải gửi Đanien vào đúng cái trường trung học anh đã từng học.
Hăngri đứng ngay ở cửa nhìn theo họ ra đi:
- Còn lâu mới phải gặp lại họ. Thật thoát nợ, – bác xoa tay nói.
Chương 7Chín năm đã trôi qua trong ngôi nhà sung túc ở phố Chợ nhưng không in lại một dấu vết suy tàn nào trên những bức tường vững như sắt cũng như trên khuôn mặt trông nghiêng của người đàn bà ngồi bên cửa sổ tầng dưới...
Tuy nhiên, ngôi nhà cổ phải chịu một thay đổi quá rõ ràng: từ mấy tuần nay, các bức mành ở gian phòng lớn có bao lơn luôn cuốn lên và các chậu hoa đặt thành hàng trên gờ cửa sổ. Khách qua đường đưa mắt lén nhìn. Ở đấy, giữa ô cửa sổ lát đá, thường xuyên xuất hiện một bộ mặt phụ nữ trẻ đẹp mê hồn và tươi roi rói, một cái đầu tóc vàng hoe, ánh tro, với cặp mắt lanh lợi của chim cu, và cái đầu ấy đặt trên một tấm thân dồi dào sức khoẻ và cân đối nhất, bà ta thường bận một chiếc áo trắng bằng vải tuyn. Đôi khi, có một đứa bé, con gái người đó, bị tạo hoá bạc đãi, dị dạng vì bệnh tràng nhạc, xuất hiện bên mẹ và đã vô thức làm nổi bật người mẹ lên.
Trong thời gian chín năm vừa qua một kỹ sư đã làm cho một thứ nước khoáng từ lòng đất ở vùng phụ cận thành phố phun thành suối, nước này khi lộ ra không khí sẽ để lắng xuống nhiều tinh thể muối quý, X. Đã đồng thời trở thành miền suối nước nóng và miền khí hậu tốt.
Thiếu phụ ấy đến để cho con gái tắm nước khoáng, làm theo lời khuyên của giáo sư Giôhanex Hêluy, ở Bon. Người này đã có danh tiếng lớn nhờ một quá trình lao động hăng say và không ngừng nên chưa có thì giờ về thăm nhà.
Có thể anh không thể đưa khách của mình vào căn phòng bất khả xâm phạm ở tầng trên được, nếu như người được anh che chở không phải là con, và cháu gái của người bà con thuộc chính giáo đến cực đoan ở miền Rênani, mà bà Hêluy rất quý trọng. Người thiếu phụ xinh đẹp kia lại có ưu thế của một địa vị cao, bà ta là quả phụ của ông nghị tham chính viện.
Hai bà cùng ngồi chuyện trò trong phòng ăn. Bỗng người thiếu phụ nói:
- Kìa, Carôlin đến kìa!
Cửa bếp mở không một tiếng động và một cô gái trẻ bước vào... Ai đã được trông thấy người vợ xinh đẹp của nhà ảo thuật mười bốn năm trước đứng trước họng súng của bọn lính, người ấy tất phải sửng sốt dù không muốn, vì sự phục sinh này: vẫn cái dáng ấy dù thanh nhã và tinh khiết hơn, người này mặc thứ vải thô sẫm màu, còn người thiếu phụ khốn khổ kia khoác trên người thứ ánh sáng lừa dối của vẻ sang trọng trên sân khấu. Vẫn những nét hoàn hảo của cái đầu, vẫn vầng trán hẹp trắng như ngà, vẫn vẻ u buồn phảng phất tạo cho khuôn mặt một sắc thái thật cảm động.
Lúc này cô gái ngước cặp lông mi đen lên để lộ đôi mắt nâu sáng ngời. Đôi mắt ấy bộc lộ một tâm hồn không chịu khuất phục. Không để cho dồn đến chỗ phải vâng theo một cách thụ động, có sức cương nghị trong cái nhìn ấy. Cô gái này chính là Fêlixitê, dù cô buộc phải thưa bẩm bằng cái tên tầm thường là Carôlin. Bà Hêluy ngay lúc bắt đầu thời chuyên chế của bà, đã cho tên thật của cô tái hợp với các thứ đồ sân khấu vô giá trị để ở trên tầng xép.
Fêlixitê đến gần bà chủ và đặt chiếc khăn tay bằng vải mịn thêu cực khéo xuống bàn khâu của bà. Bà nghị cầm ngay lấy:
- Cái này cũng đem bán lấy tiền cúng vào quỹ truyền giáo phải không bác? – bà hỏi và trải chiếc khăn ra để xem xét mẫu thêu.
- Tất nhiên, – bà Hêluy trả lời, – Carôlin phải làm việc ấy vì mục đích kia, nó làm mất nhiều thì giờ quá đấy. Ta cho rằng chiếc khăn này rất đáng giá ba êquy.
- Có thể, – bà nghị nhún vai nói, – cô lấy đâu ra hình vẽ thêu ở các góc khăn thế cô bé?
Fêlixitê đỏ mặt.
- Tôi tự vẽ lấy, – cô khẽ trả lời.
Người quả phụ trẻ quắc mắt lên, màu xanh lơ trong mắt bà biến ngay thành màu lục nhạt lấp lánh.
- Chà! Cô tự vẽ ra kia đấy! Cô bé đừng giận nhé, đấy là một sự liều lĩnh mà với ý muốn tốt nhất trên đời ta cũng không hiểu được. Sao lại có thể mạo hiểm vào lĩnh vực này khi không có kiến thức cần thiết?... Đây là thứ vải batin thực thụ, bà bác ta đã phải trả ít nhất là một êquy... thế là cái khăn hỏng vì những hình vẽ tập toẹ này. Trời ạ, cái lá khủng khiếp này là cái gì?
Bà ta chỉ một cái lá dài đầu nhọn uốn gấp xuống nổi bật trên nền vải sáng thành những đường nét mờ ảo.
Fêlixitê không thốt một lời, nhưng cô mím môi đăm đăm nhìn nhà phê bình không đúng... Bà nghị quay mật đi và giơ tay che mắt.
- Ồ, lại thế rồi, cô nhìn như mắt rắn baxilic (1) ấy. Thật không phù hợp với một cô gái trẻ ở địa vị cô khi nhìn người khác một cách khiêu khích như thế. Hãy nghĩ đến điều mà người bạn chân thực của cô luôn luôn nói với cô, anh thư ký Venne tốt bụng ấy mà: “Hãy thực thi đức khiêm tốn, Carôlin thân mến ạ!...” Thấy chưa, ngay lập tức cô ta bĩu môi khinh bỉ! Thật khó chịu... Cô thực sự muốn chơi trò lãng mạn và bướng bỉnh từ chối lời đề nghị của con người lương thiện kia, bởi vì... cô không yêu anh ta? Thật đáng tức cười! Có lẽ rốt cục ông anh Giôhanex của tôi phải dùng quyền lực mà quyết định!
Cô gái chắc đã được rèn luyện nhiều trong nghệ thuật tự kiềm chế! Khi bà nghị nói những lời cuối cô đứng thẳng lên, cô phản ứng đến nỗi máu dồn lên mắt trông rất rõ, cái đầu đột ngột ngẩng lên thoáng vẻ căm ghét và khinh bỉ. Tuy vậy, ngay sau đấy, cô nói rành mạch từng tiếng bằng một giọng bình tĩnh, lạnh lùng:
- Để xem thế nào?
- Ađen, đã bao nhiêu lần bác yêu cầu cháu đừng nêu cái vấn đề khó chịu ấy ra nữa! – Bà Hêluy nhận xét. – Cháu tưởng chỉ trong vài tuần lễ là thành công được với cái đứa lì lợm ngu đần ấy à, trong khi bác đã cố gắng suốt chín năm trời mà vẫn uổng công? Ngay sau khi Giôhanex về, sự việc sẽ kết thúc. Đi lấy mũ và khăn quàng cho tao, – bà hách dịch ra lệnh cho Fêlixitê. – Tao hy vọng rằng cái việc làm vụng về này, – bà khinh miệt ném chiếc khăn bị buộc tội sang một bên, – là việc cuối cùng mày phạm phải trong thời gian làm việc cho tao!
Fêlixitê im lặng bước ra. Ngay sau đấy, hai bà đi qua Chợ. Bà nghị xinh đẹp dắt tay đứa con gái ốm đau vẻ săn sóc như một người mẹ đa cảm. Bà ta mỉm cười dịu dàng với mọi người. Người hầu gái của bà là Roda cùng Vêrônic theo sau, tay khoác giỏ. Họ đi ăn bữa phụ buổi chiều ở vườn, họ đồng thời muốn tết các vòng hoa và tràng hoa. Vị giáo sư trẻ tuổi được chờ đón ở ngôi nhà cha mẹ anh sau chín năm xa vắng, và dù bà Hêluy rầy la “những trò ngốc nghếch” ấy, bà nghị vẫn cứ cố ý trang hoàng căn phòng của người sắp về để tỏ dấu hiệu chào mừng.
Hăngri đóng cửa và Fêlixitê bước lên thang gác. Sau khi qua một hành lang hẹp, cô dừng lại trước cái cửa cũ kỹ vẽ đầy hoa uất kim cương đã long sơn và hoa hồng màu đỏ gạch. Cô rút một chiếc chìa khoá ở túi ra và thận trọng mở cửa, sau cánh cửa là một cầu thang nhỏ đưa lên tầng xép.
Chỉ có một lần Fêlixitê phải đi con đường cheo leo trên mái nhà. Từ đấy, lối vào nơi ẩn dật của bà cô già đã chấp nhận cô. Trong những năm đầu, các chuyến đến thăm chỉ hạn chế vào ngày chủ nhật. Cô lên với Hăngri. Tuy thế, sau khi xác định rõ, bà cụ đã đưa chìa khoá chiếc cửa sơn cho cô, cô tận dụng những lúc tự do để lên đấy. Từ bấy giờ, cô sống một cuộc sống hai mặt. Không phải chỉ về mặt thể chất cô luân lưu giữa chốn hoàng hôn và nơi ánh sáng chói ngời, tâm hồn cô cũng trải qua những biến động như thế, nghị lực của cô mạnh dần lên nên các bóng tối, các nỗi buồn ở dưới kia dừng lại phía sau khi cô bước lên cái thang gác chật hẹp, tối tăm. Ở phía dưới, cô sử dụng bàn là và môi múc canh; ở những giờ gọi là để nghỉ ngơi, cô phải dành cho việc thêu thùa mà sản phẩm dành cho các mục đích từ thiện, ngoài kinh thánh và sách cầu nguyện, cô bị nghiêm cấm đọc mọi thứ sách khác. Trên tầng gác xép, để bù lại, những điều kỳ diệu của trí tuệ con người mở ra cho cô. Cô học hỏi với một niềm say mê thực sự, và kiến thức của con người bí ẩn ở trên này như một nguồn nước không bao giờ cạn. Trừ Hăngri, không một ai trong nhà biết những mối quan hệ ấy, chỉ cần bà Hêluy thoáng nghe nói là sẽ bị ngừng ngay lập tức, không gì lay chuyển nổi. Nhưng sự thể không đi đến chỗ ấy. Hăngri đề phòng, coi chừng, để mắt và lắng nghe mọi sự.
Đứng trên đầu cầu thang, Fêlixitê lắng nghe bên một khung cửa, đẩy cái khung trên cửa ra, nhìn vào và mỉm cười. Trong gian nhà này đang nổi lên một thứ huyên náo vui vẻ lạ thường, tiếng chim hót, tiếng chiêm chiếp, tiêng vo vo kêu hoà vào nhau thật kỳ lạ. Giữa chỗ ấy, hai cây tùng nhỏ vươn cao, dọc theo các vách tường, những cây nhỏ tụ lại thành khóm cũng xanh tươi như ở trong vườn, và trên cành một lũ chim ríu rít nhún nhảy.
Fêlixitê đóng khu cửa ấy lại, rồi mở cửa thứ hai. Nhiều năm trước, độc giả đã nhìn qua căn phòng đầy dây trường xuân bọc quanh, đã biết bộ tượng đầu người uy nghiêm đặt sát các vách tường, nhưng chưa biết chúng có quan hệ mật thiết như thế nào với những khổ giấy gấp đôi đóng bìa da dê nhuộm đỏ để tích luỹ trong cái tủ kính kiểu cổ... Đó là sức truyền cảm mãnh liệt phát xuất từ những vầng trán kia, ai biết tháo mở sức truyền cảm ấy, người đó sẽ không biết hiu quạnh, cũng không biết tình trạng bị ruồng bỏ. Đấy là những nhà soạn nhạc vĩ đại nhiều thời kỳ khác nhau, với tượng và tác phẩm của họ, họ chia sẻ nơi ẩn dật với bà cô già. Nhà dương cầm cô đơn này tôn sùng một cách vô tư âm nhạc Ý cũng như âm nhạc Đức.
Nhưng cái tủ kính này còn chứa đựng những báu vật để làm cho người sưu tập thư bút phải ngây ngất. Các bản thảo và thư của các thiên tài đầy sức mạnh ấy, số lớn thuộc loại có giá trị hiếm có, để trong các hộp bìa trong tủ kính. Bộ sưu tầm này được tập hợp từ lâu. Ở thời kỳ mà, như bà cô vừa nói vừa mỉm cười, máu của bà còn rừng rực chảy trong huyết quản, và sức mạnh còn hỗ trợ cho lòng ham muốn... có những tờ đã cũ vàng mà phải tốn kém lớn và kiên trì hãn hữu mới kiếm được.
Bà chủ cơ ngơi này đang lau bụi cho một bức tượng. Bà quay về phía cô khách.
- Cháu đến bà thật hài lòng, Fê yêu quý của bà ạ! – Bà bảo cô. – Cháu sẽ giúp bà sắp xếp chỗ kia một lúc.
Hai người lại gần tủ kính.
Cái tủ gỗ cổ bụng bầu ấy cũng có bí mật của nó. Bà cô Coocđula ấn vào một chỗ trang trí không có vẻ gì đáng chú ý, thế là một miếng ván hẹp ngoài thành tủ mở ra. Khoảng tủ lộ ra chính là két bạc của bà cô. Fêlixitê chỉ có thể thoáng nhìn thấy các đồ quý, lạ xếp đầy bên trong. Trên hai ngăn nhỏ có mấy cuộn tiền êquy, đồ bạc và nữ trang.
Trong khi bà cô lấy tiền ở một cuộn giấy bạc ra và đếm cẩn thận, Fêlixitê với lấy cái hộp để mãi trong một góc tối và mở ra vì tò mò. Cô nhìn thấy trong ấy có một chiếc vòng tay đặt trên bông mềm; Không có một viên ngọc quý nào lóng lánh, chiếc vòng cầm nặng trĩu, chắc bằng vàng nguyên chất. Nhưng điều đáng ngạc nhiên nhất là tầm cỡ nó. Tay phụ nữ đeo sẽ tuột ngay, hình như chiếc vòng này dành cho cổ tay to của đàn ông thì đúng hơn. Khoảng giữa chiếc vòng rộng bản hơn và đúng ở chỗ này, con dao chạm trổ của người thợ khắc lên những bông hồng và các nhánh tinh tế kết thành tràng hoa bao quanh một hình huy chương trên khắc một câu thơ nghĩa chưa đầy đủ. Cô gái lật đi lật lại chiếc vòng để tìm phần bổ khuyết nhưng không thấy.
- Bà ơi, bà có biết phần tiếp theo không? – cô hỏi.
Bà già ngẩng nhìn:
- Ồ, cháu sa vào cái gì đấy, – bà vội kêu lên, cùng một lúc giọng bà bao hàm cả sự giận hờn, tay run run và đậy nắp lại. Một bên má bà nổi lên một vệt đỏ bừng và đôi mày cau lại làm cho mắt bà như mơ màng một cách ảm đạm. Chưa bao giờ cô gái trông thấy bà như thế. Có thể nói rằng hiện tại đột ngột nhường chỗ cho một dòng thác không cưỡng lại được của các hoài niệm bị thức tỉnh, nên bà cụ không ý thức được sự hiện diện của Fêlixitê, vì sau khi vội vã đẩy cái hộp vào chỗ của nó, bà cầm lấy cái hộp để bên cạnh trên dán giấy xám và đưa lên vuốt ve các góc đã sờn; Nét mặt bà dịu lại, bà thở dài và thì thầm nói khi ôm cái hộp vào bộ ngực gầy gò: – “Cái này phải chết trước ta... vậy mà ta không thể nhìn được nó chết!”
Fêlixitê lo lắng quàng tay ôm lấy bà già bé nhỏ và yếu ớt lúc này đang đứng trước cô trong trạng thái khổ đau đến ngơ ngẩn. Đây là lần đầu tiên trong suốt chín năm quen biết, bà cô mất tự chủ, dù hình dáng bên ngoài của bà mảnh dẻ, yếu ớt, nhưng trong mọi trường hợp bà tỏ ra có sức mạnh phi thường về tinh thần, bà luôn luôn bình thản, vững vàng không một nguyên nhân bên ngoài nào làm bà mất thăng bằng. Bà hết lòng gắn bó với Fêlixitê, bà đã đặt vào cô gái này tất cả kiến thức của bà, tất cả kho tàng ý nghĩ lành mạnh của bà về cuộc đời, nhưng quá khứ của bà vẫn đóng kín, hoàn toàn như chín năm trước đây. Thế mà trong lúc hấp tấp thiếu thận trọng, Fêlixitê đã động chạm đến cuộc đời giấu kín như man dại. Cô cay đắng tự trách mình.
- Bà ơi, xin bà tha thứ cho cháu! – cô năn nỉ và biết năn nỉ một cách cảm động biết chừng nào, cô gái mà bà Hêluy gọi là đứa lì lợm, ngu đần!
Bà cụ đặt tay lên mắt.
- Im đi cháu. Cháu không làm gì sai cả. Bà nói lẩm cẩm đấy! – giọng bà như kiệt lực. – Phải, bà già rồi, già và yếu! Ngày xưa, khi bà đã ngậm miệng là không một lời thốt ra, bà dũng cảm nhìn thẳng vào sự việc. Bây giờ không như thế nữa. Đã đến lúc bà nằm trong mộ rồi.
Bà vẫn cầm cái hộp nhỏ trong hai bàn tay lưỡng lự, như đang vùng vẫy để có can đảm thực hiện lời kết tội tử hình vừa thốt ra, nhưng một lát sau bà lại để nó vào chỗ cũ rồi khoá tủ kính lại.
Fêlixitê mở khung cửa kính ra hành lang. Bấy giờ là cuối tháng năm – trên bờ tường hành lang dạ hương lan, linh lan và uất kim cương nở tưng bừng, hai bên khung cửa kính các cây sơn mai, hoa to và những khóm bạch đàn trồng trong bồn đang vươn cao.
Fêlixitê bưng chiếc kỷ đến chỗ hành lang nhô ra và đặt ở bên chiếc ghế bành rất êm của bà cụ. Cô trải khăn bàn và để lên đấy chiếc ấm lọc cà phê đang sẵn sàng hoạt động khi chất lỏng ấy reo lên và thổi hơi qua còi báo hiệu, mùi cà phê môca thơm lừng toả khắp hành lang. Bà cô già đã ngồi khoan khoái trong ghế bành và mơ màng ngắm nghía cái khoảnh khắc mùa xuân xán lạn ánh mặt trời ấy.
- Bà ơi, – Fêlixitê nói sau một lúc im lặng và cân nhắc từng lời, – mai anh ta về.
- Đúng, cháu ạ, bà biết qua báo, tờ Tiếng Vang của Bon đây này: giáo sư Hêluy đi nghỉ hai tháng ở Tuyringơ... Nó trở thành người có danh tiếng rồi đấy, Fê ạ!
- Mong rằng anh ta được thư thái trong vinh quang!.. Anh ta không biết đến những dằn vặt mà lòng thương người đau đớn gây ra. Anh ta ấn sâu mũi dao mổ vào da thịt của tâm hồn cũng với niềm vui ngang bằng như thế.
Bà cô kinh ngạc nhìn vào mặt Fêlixitê, giọng nói đầy nỗi đắng cay vô tả ấy là điều mới lạ đối với bà.
- Hãy giữ cho mình khỏi bất công, cháu ạ! – sau một lúc im lặng bà nói chậm rãi và rất dịu dàng.
Fêlixitê ngước nhìn lên ngay, mắt cô vốn có màu nâu nay hình như đem lại.
- Cháu không biết làm như thế nào để nghĩ một cách khoan dung hơn đối với anh ta, – cô đáp lại, – anh ta đã cư xử quá tệ đối với cháu, cháu biết rõ rằng nếu sự rủi ro đến với anh ta, cháu sẽ không thương hại. Và nếu cháu có thể góp phần tìm cho anh ta được một chút hạnh phúc, cháu sẽ không nhấc một ngón tay...
- Fê!
- Thật thế, bà ạ! Cháu luôn đến đây với bộ mặt thanh thản bởi vì cháu không muốn làm cay đắng những giờ họp mặt ít ỏi của bà với cháu, bà thường tưởng rằng tâm hồn cháu bình yên trong khi giông bão gào thét trong cháu... để họ giày xéo trong cát bụi, hàng ngày hàng giờ... nghe họ lăng nhục cha mẹ cháu, bảo cha mẹ cháu là đồ đồi bại, đổ cho cháu những tật xấu họ bịa ra... Cháu có những hoài bão cao đẹp, vậy mà đã bị xô đẩy vào đám người vô học giữa những tiếng cười nhạo báng, chỉ vì cháu nghèo khổ và không có quyền học cao... Những kẻ hành hạ cháu lại mang hào quang của lòng từ thiện, họ tìm cách huỷ hoại trí tuệ cháu nhân danh Đấng Tối cao... nếu lặng lẽ chịu đựng tất cả những bất công ấy, nếu từng giọt máu không sôi lên trong người cháu, nếu có thể tha thứ, thì đây không phải là lòng nhân từ, độ lượng của thiên thần, mà chỉ là sự lệ thuộc hèn nhát và nô dịch của một tâm hồn nhu nhược đáng cho người ta đạp vào đầu!
- Ý nghĩ lại phải đứng trước bộ mặt như đá ấy, làm cho cháu xúc động đến nỗi không biết nói như thế nào với bà! – cô nói tiếp sau khi đã nghỉ lấy hơi. – Anh ta sắp nhắc lại bằng giọng nói không có trái tim và không có tâm hồn tất cả những điều ác đã mắc đối với cháu bằng chữ viết đã chín năm nay. Giống như thằng bé tàn bạo bắt con vật có cánh nào đó bay vật vờ trong phạm vi sợi dây buộc chân nó, anh ta đã trói buộc cháu vào cái nhà khủng khiếp này và biến chúc thư của ông bác thành sự hành hạ cháu. Còn có cái gì ác độc hơn cách cư xử của anh ta đối với cháu? Anh ta không chấp nhận rằng cháu cũng có thể có khả năng về mặt trí tuệ, có một trái tim dịu dàng, một điểm nhạy cảm về danh dự... tất cả những thứ ấy không thể không nhận có thể có ở một đứa con gái của người diễn trò, sự ô nhục trong nguồn gốc của nó chỉ có thể được chuộc bằng cách biến nó thành nô bộc của Chúa, thành một trong những kẻ khốn nạn mà chân trời bị giới hạn đến mức nhỏ hẹp nhất.
- Chà, chương trình của họ bị vượt qua rồi, cháu ạ! – Bà cô Coocđula nói và mỉm cười rất tế nhị. – Hơn nữa, việc nó về chắc chắn sẽ là một bước ngoặt của đời cháu, – bà nghiêm nghị nói tiếp.
- Sau nhiều trận đấu tranh kiên quyết, bà ạ... hôm nay bà Hêluy đã đảm bảo với cháu một điều đáng an ủi rằng mọi sự sắp kết thúc.
- Vậy thì bà sẽ không cần nhắc lại rằng cháu phải kiên nhẫn ở dưới ấy, vì lòng tôn trọng di chúc của người đã đem cháu về nhà và yêu cháu như con gái... Rồi cháu sẽ hoàn toàn tự do, cháu sẽ là người khán hộ của ta trước tất cả mọi người, chúng ta sẽ không sợ ai chia rẽ nữa, vì những người dưới kia đã từ bỏ quyền của họ rồi.
Fêlixitê ngước cặp mắt vui vẻ nhìn lên và nhanh nhẹn cầm lấy bàn tay héo hon của bà già đưa lên môi.
- Đừng nghĩ xấu về cháu, bà ơi, khi bà đã đi sâu vào những ý nghĩ của cháu, – cô cầu khẩn giọng êm dịu lại, – cháu yêu mến con người, cháu nghĩ là họ cao quý, cháu kháng cự lại việc giết chết trí tuệ chính vì cháu bị thúc đẩy một phần nào, bởi vì ý nghĩ cháu không phải là một kẻ khổ dịch tầm thường giữa họ... Dù bị vài người hành hạ, cháu đâu có oán trách cả nhân loại... cháu cũng không hoài nghi họ... Ngược lại, cháu không hề sẵn lòng yêu mến kẻ thù của cháu hay cầu phúc cho kẻ đã nguyền rủa cháu. Nếu đấy là một điểm đen tối trong tính tình của cháu, cháu cũng không thể thay đổi và không muốn thay đổi, bà ơi, như thế là vượt quá giới hạn ngăn cách lòng nhân từ và tính nhu nhược.
Bà Coocđula im lặng và nhìn xuống sàn một cách buồn rầu... phải chăng trong đời mình bà cũng có một điểm mà bà không thể tha thứ?
Khi Fêlixitê rời chỗ bà già thì ngôi nhà phía trước đã nhộn nhịp. Cô nghe tiếng Annet, con gái bà nghị, cười nói ríu rít, trong khi trên đầu tầng hai có tiếng búa nện mạnh vang lên. Cô gái chạy qua hành lang dẫn đến tầng ấy.
Ở đấy, Hăngri đứng trên thang đang ghim những tràng hoa lên phía trên cửa. Trông thấy Fêlixitê, bác nhăn mặt cực kỳ hài hước và nện thật mạnh mấy nhát búa nữa lên đầu mấy chiếc đinh rủi ro, như muốn biến nó thành bột, rồi bác xuống than
Mrone_kullove